Chúa đến để tìm và cứu những gì đã mất."



ĐỨC GIÁO HOÀNG GION POUL II THƯƠNG TRẺ EM












Trích truyện giọt lệ

30 NĂM SAU

Tiếng đạn bay vèo vèo trên đầu. Những cành cây trúng đạn gẫy răng rắc, văng gỗ bay tứ tung. Lúc hắn vướng sợi giây rừng té ngã, cũng là điều may cho hắn. Hắn té xuống ngay một mương nước cạn. Nằm xuống lòng mương tránh đạn rồi cứ dọc theo lòng mương, hắn chạy về hướng Nam. Người lính canh trên chòi gác quay đèn pha, nổ thêm một tràng đạn nữa. Nghe tiếng đạn đi, hắn biết là tên lính chỉ bắn bâng quơ chứ không biết hắn chạy về phương nào. Sau một hồi chạy bộ, tiếng đạn đã im. Hắn leo lên bờ mương, băng qua cánh đồng, chạy vào rừng sâu.
Ba mươi năm lao tù. Hôm nay tên tù được đặt chân vào cõi đời tự do. Hắn nhìn lại cuộc đời như cơn ác mộng, thực thực, hư hư, mờ ảo. Thời gian là một giòng sông làm tan tác tất cả. Bây giờ, nếu tên tử tù có về quê cũ cũng chẳng còn ai nhận ra hắn nữa. Mái tóc cắt ngắn của tuổi mười ba đã mất tự thủa nào. Mặt mày râu tua tủa. Tóc kín mang tai ngả sang màu muối tiêu, bạc một góc đầu. Dáng điệu một chàng thanh niên suốt đêm với rượu và đàn bà của thành phố đèn đêm cũng hết rồi. Gã không còn sức để đâm cây gậy nhọn thúc vào người đàn bà như thủa xưa, ba mươi năm về trước. Chậm chạp. Mệt mỏi. Già nua. Hắn biết hắn đã qua một đoạn đời dài. Có nghĩa hắn cũng đang gần cõi chết hơn.
Ðến bìa rừng, hắn ngồi thở hắt ra. Miệng khô ran. Vết đạn nơi chân ra nhiều máu. Khát nước, mệt lả. Cạnh rừng, thỉnh thoảng có những tiếng sóc nhỏ chạy đuổi nhau xào xạc. Nhà tù đã xa tít mù ở phía trước mặt. Cánh đồng bắp ngô cao đến thắt lưng, trúng mùa, đang dập dờn theo sóng gió đưa. Hắn xé khúc vải quần, bó vết thương chặt lại. Nhủ thầm rằng với bất cứ giá nào cũng phải đi trọn đêm nay vì chắc chắn ngày mai tin tên tử tù vượt ngục sẽ làm huyên náo trại tù và khu dân cư chung quanh đây.
Ði được hai ngày, hắn mừng thầm sẽ thoát thân trong cuộc vượt ngục gian khổ này. Nhưng đi về đâu? Hắn không có câu trả lời. Làm sao để ẩn mặt mà sống? Nghẽn lối. Hắn bắt đầu đặt những câu hỏi tương tự liên quan đến tự do. Thoát khỏi vòng kẽm gai cũng chưa là có tự do. Hắn thấy cái tự do mà hắn đang tìm kiếm không dễ gì đạt được. Hai ngày đường, nhà tù đã xa rồi. Hắn quyết định dừng lại, tìm một nơi kín đáo để nghỉ ngơi hầu lấy sức tiếp tục. Hắn biết dừng lại ở những cánh đồng là nguy hiểm nhưng đấy là con đường duy nhất để kiếm đồ ăn. Ðợi đêm khuya hắn lần xuống ruộng khoai. Trái cà chua chín đỏ mà đã từ ba mươi năm nay hắn không nhìn thấy. Tay run run xúc động sờ lên trái cà chua mọng. Mỗi miếng răng cắn vào trái cà chua là như cắn vào miếng hạnh phúc. Hắn thấy sức lực đang hồi sinh. Một bữa ăn no làm gân cốt hắn thêm dẻo dai, căng lên một sinh lực đang bắt đầu dẹp xuống.
Chỉ việc đi nửa tiếng nữa, nhẹ nhàng đẩy cánh cửa bếp là hắn có thể có một nồi cơm, một tô cá kho, hay một niêu tôm thơm mùi tiêu ớt cay cay. Chỉ cần một bữa cơm như thế là hắn có thể lấy lại sức, tỉnh táo ngay. Nghĩ tới đó hắn nuốt nước dãi ừng ực. Nhưng hắn không dại gì mà mò về làng, dù đã nhìn thấy những mái lá thấp thoáng ở xa xa. Ba mươi năm trong tù, giờ đây hắn phải cẩn thận từng đường tơ, kẽ tóc. Nhìn về phía ngôi làng nhỏ, nhưng hắn đi ngược theo bìa rừng, tìm đường lên núi. Ðây chưa là chỗ an ninh cho một tên tù nhưng dù sao thì cũng đã hai ngày đường cách xa trại giam. Hắn đã phần nào bớt lo âu về việc săn đuổi của cảnh sát.
Sau đêm ngủ. Hắn leo lên núi tìm gò đá cao đứng quan sát xuống cánh đồng. Vào cuối tháng mười vẫn còn những trận mưa lớn, bất chợt. Một miếng vải ni lông là điều cần thiết cho tên tù để che mưa, chống lại muỗi rừng. Hắn ngồi quan sát cánh đồng, hi vọng có thể tìm thấy miếng ni lông vì người ta hay che những luống rau đang nẩy mầm để tránh những trận mưa lớn. Trên sườn núi nhìn xuống, hắn thấy cảnh sinh hoạt bình yên của vùng dân cư nhỏ. Bầy trâu thong thả gặm cỏ. Bóng người nhấp nhô trên nương khoai. Xa hơn cánh đồng là con đường rải đá đỏ, bụi mù theo vết bánh xe khi chiếc xe lam chạy qua. Thỉnh thoảng, vài chiếc xe bò nặng nhọc chở đầy củi lăn chậm theo con đường về xuôi. Vài người đàn bà quẩy gánh đi bộ. Tên tử tù thấy xã hội gần gũi quá mà sao cũng lại xa xôi diệu vợi. Dưới kia, chỉ nửa tiếng đi bộ là thế giới bình thản, êm đềm, gần gũi quá đỗi mà sao vẫn thấy cách ngăn. Mấy con trâu hiền từ làm hắn nhớ về thủa bốn mươi năm trước ở ngôi làng nhỏ tương tự thế này. Hắn lùa trâu xuống ao tắm để đi đá dế, đánh đáo ăn từng xu bạc cắc. Thằng Long, thằng Huy, con Mẫn, con Soan, chúng nó bây giờ ở đâu? Còn sống? Hay chết? Chắc hẳn đã có cháu nội, cháu ngoại. Tên tử tù ngồi nhớ về quê cũ rồi bùi ngùi thấy mình là một cánh bèo đang dạt trôi về nẻo kí ức xa mờ.
Trời ngang chiều. Lúc hắn vừa chợt thức giấc thì có tiếng người gọi nhau:
- Ði về phía này!
- Có lẽ nó chạy về phía kia.
Người thanh niên nói:
- Không thấy vết chân gì cả.
Người kia quả quyết bằng giọng nói chắc nịch:
- Nó chỉ lẩn quẩn ở đâu đây!
Tên tù vượt ngục cúi đầu sâu hơn vào bụi gai, ôm ngực như giữ con tim dừng đập mạnh. Một người đi gần về phía hắn quát gay gắt:
- Ðã bảo đem chó theo, dặn dò như thế mà không được việc gì!
Ði gần đến chỗ hắn núp, người đàn ông đứng quay lại phía người kia ra lệnh:
- Tìm kĩ mấy bụi sậy, nó chỉ quanh quẩn đâu đây.
Tên tù sợ hãi. Nếu bị bắt lần nữa chắc là hắn sẽ chết rũ trong tù, không còn hi vọng vượt thoát. Mồ hôi chảy ướt thái dương. Hắn run như một con chó đói đang chảy nước mắt trước tên đồ tể với con dao sắc bén. Trong cơn khốn cùng bất giác hắn cắn môi thưa thầm lặng:
- Lạy Chúa xin cứu con!
Có tiếng người trẻ hơn đáp lại:
- Con không tin là nó ở đây, nó có lẽ chạy về phía kia.
Tên tử tù lắng nghe. Lời đối đáp của hai người cho thấy liên hệ của họ. Có lẽ người kia là ông bố, nếu vậy thì không phải là cảnh sát đang lùng hắn mà là hai cha con đi săn. Tên tù vẫn bàng hoàng sợ hãi, sẽ vén cành cây nhỏ cố nhìn xem họ là ai. Người đàn ông đeo một chiếc túi đan bằng tre. Tay trái xách con thỏ. Tên tù bớt boàng hoàng, hắn mừng vì vừa thoát cơn đại họa. Hắn lẩm bẩm chửi thầm con thỏ khốn nạn sao không chạy đi lối khác mà lại chạy về phía hắn đang náu làm chi!
Ngay tối đó, hắn lần xuống sườn đồi, nương theo bờ khoai đi tiếp, bỏ lại khu rừng và cũng chẳng còn định kiếm miếng ni lông nữa.
Ðã hơn bốn mươi năm. Lời cầu Chúa vô tình hồi chiều trong lúc gian nan gợi cho hắn cảm giác mơ hồ rằng hắn là người có đạo. Bốn mươi năm gặp biết bao hiểm nghèo mà hắn có bao giờ cầu nguyện đâu. Thượng Ðế đã trôi dạt, đã đi xa trong lòng hắn rồi. Vì sao trong cơn khốn quẫn chiều nay hắn lại kêu Ngài. Hắn không hiểu vì sao. Cố gắng ngoi ngược thời gian đi về tuổi thơ, hắn nói một mình, có lẽ phải năm mươi năm về trước, hắn không còn nhớ ở tuổi nào, hắn cũng đã được ăn tấm bánh trắng nho nhỏ. Hắn cũng đã xưng tội. Trí nhớ hắn lù mù, hỗn độn. Càng nghĩ về tuổi thơ hắn càng thêm tin là hắn có đạo, có cầu kinh. Có Chúa. Tên tử tù cố gắng mò ngược dòng đời mù đặc khói đen tìm về kí ức xa xăm. Hơn ba mươi năm tù đầy với những trận roi, những cú đá làm hộc máu, những khúc gỗ đập xuống đầu như đập xuống quả dừa khô không xót thương làm hắn chết lịm nhiều lần. Tiếng kêu tru tréo. Những tên tù thắt cổ tự tử. Tất cả đã làm trí nhớ hắn cùn đi, đần độn lại. Ðã nhiều lúc hắn mê sảng, mất trí. Lần trở về với quá khứ cả là thách đố khó khăn.
Dòng dã từ ngày thoát ngục, đã gần hai tuần lễ, hắn vẫn chưa thấy tự do ở đâu, chưa biết hương vị tự do là gì. Xã hội vẫn vây khốn, đang ruồng bắt hắn. Ðôi lúc dừng chân, hắn nhớ đến lời ông già thủa xưa mà hắn đã gặp hơn ba mươi năm về trước. Ông nói cái gì? Gia đình? Xã hội? Tình thương?
Mất ngủ làm tên tù giảm sút cả tinh thần lẫn sức khỏe. Hắn đã già, không còn sức lực như năm mười tám tuổi nữa. Bây giờ biết đi về đâu? Tìm được một chỗ trú thân không phải đơn giản. Ði tới đâu người ta cũng sẽ soi mói đến quá khứ của hắn. Làm sao tránh khỏi? Những hi vọng hào hùng lúc chuẩn bị vượt ngục đã đem phấn khởi cho hắn, bây giờ như cọng cỏ rũ xuống, hết sinh lực. Ðường tìm đến tự do từ từ khép lại. Cánh cửa cuộc đời vẫn mở nhưng hắn không được phép bước vào. Ði đâu bây giờ? Ðiệp khúc ấy dần dần trở thành câu hỏi ám ảnh. Hắn không thể tiếp tục lần mò trên nương khoai như thế suốt đời. Hai tuần lễ mà sao dài như mười năm. Hắn bắt đầu kiệt lực. Muỗi cắn. Thiếu ăn. Mất ngủ. Ðau nhức. Sức chịu đựng của hắn bắt đầu rã xuống như miếng hồ trên tường vôi không đủ chất keo. Ðôi lúc hắn đã có ý khùng điên là tự kết liễu cuộc đời.
Nỗi dầy vò cao dần. Ði về đâu? Câu hỏi trở thành bản án cho chính hắn. Nhưng bản án cay nghiệt nhất là ngày nhớ đến chiếc lọ thủy tinh nhỏ, ngày đó mới chính là tai ương. Vào một buổi trưa hanh nắng, hắn đã lấy chiếc lọ nhỏ múc nước. Nhưng lạ lùng, hắn trơ mắt nhìn, cho dù múc thế nào đi nữa chiếc lọ vẫn cạn khô. Hắn đã mang theo chiếc lọ nhỏ từ ngày linh mục trao cho hắn trong buổi chiều say túy lúy, sau lúc xưng tội. Hắn dùng lọ ấy đựng những thứ tiện dụng, mấy viên đá lửa, mũi dao, năm ba viên thuốc. Ðây là lần đầu tiên hắn múc nước vào chiếc lọ. Chiếc lọ tiện dụng nên hắn đã mang theo nó suốt mấy chục năm trời. Từ buổi chiều đổ nước mãi mà không đầy, gã lần theo thời gian đi về gốc gác lịch sử của nó. Sau cùng hắn đã nhớ lại đó là việc đền tội cha già bảo hắn làm. Suýt soát đã bốn mươi năm về trước.

NGÀY MỒNG 2 THÁNG 11

Chiếc lọ nhỏ nhưng đã trở thành gánh nặng trên vai gã. Hắn đã mấy lần ném đi nhưng rồi phải nhặt lại. Hắn không thể rời chiếc lọ được nữa. Nó trở thành tiếng nói quyền phép mà hắn không thể coi thường. Chiếc lọ không sứt mẻ, sao nước đổ không đầy. "Việc đền tội của con là đổ đầy nước vào chiếc lọ này." Lời của vị cha già năm cũ bắt đầu theo trí nhớ vọng về mù mờ nhưng không sai sót. Hắn tự nhủ, như vậy hắn có tội sao? Như vậy tội hắn không được tha sao? Tại sao cái lọ không đầy? Không tìm được câu trả lời. Cái lọ nhỏ bé mà trở nên quyền uy. Hắn đã giang hồ khắp bốn phương trời. Vào tù ra khám, không kiêng nể một ai. Cuộc đời phải khuất phục hắn. Hắn không khuất phục ai. Nhưng bây giờ hắn bất lực trước chiếc lọ nhỏ im lặng. Từ ngày phải chịu đựng quyền uy của chiếc lọ, hắn bắt đầu nghĩ đến sức mạnh của Thượng Ðế. Chiếc lọ nhắc nhở đến buổi ở trong nhà thờ, dẫn hắn tới trước mặt Thượng Ðế mà hắn đã coi như không có trên đời. Hắn không thể chối từ kẻ ấy được nữa. Sau mấy chục năm lương tâm chai lì, bây giờ chỗi dậy, gay gắt, cứng rắn. Hắn đã nhiều lúc đàn áp tiếng nói vô âm thanh trong hồn nhưng càng đè nén nó càng sắc buốt. Máu của người đàn bà đỏ thẵm trong từng cơn ngủ. Những lừa gạt, những tối truy hoan, tất cả bắt đầu dần dần hồi sinh, mọc ra những gai nhọn đâm vào hồn. Khởi đầu từ chiếc lọ thủy tinh, từ ngày mà hắn không thể đổ nước được vào chiếc lọ nhỏ ấy. Hắn căm thù chiếc lọ. Chiếc lọ trở thành bản án hắn phải mang theo. Chỉ có linh mục già tai ác đó mới có thể giải thích được về chiếc lọ. Nhưng đã mấy chục năm rồi, chắc chắn linh mục đó đã chết. Vậy ai là người có phép mầu cắt nghĩa cho hắn? Tên tử tù bị chiếc lọ ám ảnh lo âu thâm cuồng vòng mắt.
Trời đã về tối. Hắn ngồi bên nghĩa trang hoang lạnh. Xa xa là làng mạc dân cư. Bóng giáo đường trồi cao khỏi những mái nhà lá thấp. Tên tù vượt ngục mệt rã rời. Bản án của chiếc lọ còn nặng hơn cả án tù. Lương tâm hắn thức dậy đay nghiến, cắn rứt. Cuộc nổi loạn bây giờ là chính hắn, trong con tim chứ không ở ngoài. Không ai ra hình phạt nhưng hắn tự đay nghiến mình. Bây giờ hắn mới bừng tỉnh, cảm nghiệm rằng hình phạt lớn nhất là hình phạt của chính hồn mình phản loạn với mình. Cái tự do mà hắn đang tìm không là tự do khỏi vòng kẽm gai nhưng là tự do không bị cắn rứt của lương tâm.
Giờ đây, nếu người ta có ân xá thì hắn cũng chẳng sao trả lời về chiếc lọ, hắn cũng chẳng sao bình yên thoát trói buộc của lương tâm dầy vò về việc đền tội thủa xưa.
Ðương đầu với chiếc lọ nhiệm mầu, hắn gầy rạc hẳn đi. Mắt trũng sâu như kẻ sắp chết. Chiều nay, bên nghĩa trang, mắt hắn hoa lên không nhìn rõ những ngôi mộ, mơ hồ như những xác người đang bò lổm ngổm. Trong nỗi tuyệt vọng, hắn ôm mặt khóc. Hắn không thể đi về lối xóm. Phải trốn bị bắt. Ðau khổ của lương tâm. Bất an vì chiếc lọ. Thao thức về lời của cha già: "Việc đền tội của ngươi là đổ nước đầy chiếc lọ." Hắn không thể coi thường cái lọ nhỏ được nữa. Ðây không phải là lời nói lẩm cẩm của một ông cha già, nó đã trở nên thách đố siêu bạo giữa sức của hắn và một quyền phép linh thiêng. Sức sống đang dần dần rút khỏi, hắn đuối sức như thấy nỗi chết cận kề. Bước chân ríu vào nhau, không đi vững nữa. Hai cánh tay đầy ghét cáu bẩn, gầy đét ôm mặt.
Nghĩa trang cô độc, lặng lẽ không có dấu vết sự sống. Ðầu óc hắn quay cuồng, hắn thấy trước mặt từng trăm người đang bị treo giang tay. Tên tù rùng mình sợ hãi. Hắn trơ trọi một mình giữa tang tóc li biệt, đầy tiếng kêu than. Mắt gã cứ hoa lên, hắn thấy hàng trăm người đang bị treo trên thập giá đều nhìn hắn. Những con mắt nhìn hắn chằm chằm. Kinh dị. Gã tử tù sợ hãi trước hàng trăm con mắt ấy. Nhìn trời ngả về tối, hắn thấy đời hắn tối sầm lại. Nhìn lên trời cao, hắn thấy đời hắn thắt chặt lại quắt queo. Tất cả lối đi là nghẽn thở. Tuyệt vọng về mênh mông. Cô đơn. Trống trải. Lạnh lùng. Hắn nhớ về câu chuyện đã nghe từ lâu lắm, không biết ai kể, ở đâu. Chuyện kể về một người cha có đứa con đi hoang nhưng suốt đời chẳng tiến thân được, sau cùng nó lần mò về nhà cha thú nhận tội lỗi và sự bất lực của nó. Và cha nó đã ôm nó vào lòng. Hình ảnh tình thương ấy làm tên tù dưng lệ.
Tên tù ngước lên cây thập tự lớn trên ngôi mộ. Chẳng còn ai để nói một lời ngoài hình tượng trên thánh giá. Hắn thấy mình nhỏ bé, yếu đuối và trần trụi. Bấy giờ hắn cũng nhận ra hắn không thể làm chủ và không thể giải quyết được chính cuộc đời của hắn. Trong cơn đau khổ cùng cực, hắn nhìn lên thập giá khóc, cầu cứu. Vô tình, giọt nước mắt rơi vào miệng lọ rồi từ từ nước dâng đầy. Tên tù không hay biết gì, cứ ôm lấy thập giá như một người có sức cho hắn an ủi. Khóc nhiều hơn, càng khóc thì tên tù càng thấy vơi đi những đay nghiến. Hắn nhìn lên tượng Chúa dâng một lời nguyện, lời nguyện đầu tiên sau mấy chục năm sống trong tội ác. Lời nguyện như có sức nhiệm mầu cho hắn hơi thở dễ dàng. Hắn không hiểu rõ những gì xẩy ra trong hồn, nhưng hắn biết có sự thay đổi, có điều khác lạ. Hắn muốn đem câu chuyện về chiếc lọ để nói với thập giá. Khi hắn đưa chiếc lọ lên trước tượng chịu nạn thì hắn ngạc nhiên kinh hoàng. Nước đã đầy. Hắn cho tay vào lọ để thử, đúng là nước. Nước dàn ra bên ngoài. Gã tù nhân không tin ở mắt mình, hắn dốc ngược chiếc lọ nhỏ, nước trong lọ chảy xuống thấm vào lòng cát khô. Gã tù nghe xôn sao trong hồn. Vừa đưa miệng lọ quay lên, giọt nước mắt vô tình rơi vào lòng chai, nước lại từ từ dâng đầy. Hắn sửng sốt vì hiện tượng lạ lùng. Nhưng chính lúc ấy trí khôn hắn trở nên minh mẫn. Hắn hiểu vì sao lọ đã đầy. Chỉ có nước mắt mới làm chiếc lọ đầy. Nhưng điều quan trọng hơn là tại sao chỉ có nước mắt mới có sức mạnh hóa giải? Ngay trong thắc mắc ấy, hình ảnh câu chuyện người con hoang đường trở về sống động trong linh hồn hắn. Rơi vào giây phút huyền nhiệm là một bừng tỉnh lạ lùng, hắn hiểu tại sao chỉ có nước mắt mới làm đầy cái lọ, chỉ có lòng xám hối và cầu cứu sự xót thương của Chúa. Lời cha già năm xưa trong tòa giải tội lại âm vọng rõ nét. "Tội của con được tha khi con đổ nước đầy cái lọ này!" Hắn nhìn lọ nước sóng sánh đầy nước. Một cảm xúc mãnh liệt dâng trào ứ ngập hồn. Hắn chạy đến ôm lấy tượng chịu nạn không nói được lời nào, xúc động cùng tột vỡ trên bờ mắt sâu hõm vì thương đau. Hắn khóc như đứa con nít:
- Lạy Cha, xin xót thương con!
Hồn hắn đã có mùa xuân đi về. Một màn sương mát đang làm mảnh đời khô héo tươi lại. Bấy giờ hắn nhìn kĩ dưới chân các ngôi mộ, trên những thánh giá và thấy có rất nhiều hoa. Hắn không biết vì sao có nhiều hoa như thế. Làm sao hắn có thể biết được hôm đó là ngày mồng hai tháng mười một, ngày người ta đem hoa ra nghĩa trang làm lễ cầu nguyện cho các linh hồn. Ngày Chúa đã hứa là bóng tối không còn quyền lực trên con người vĩnh viễn vì Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết.
Ở các thành phố lân cận, người ta treo hình hắn khắp cả, họ đang lùng bắt một tên tù vượt ngục.

Lời cuối


    * Trong danh sách tội nhân, tại sao Evà không khóc? Ađam không khóc? Yuđa không khóc? Cain không khóc? Dường như khóc không phải là điều dễ. Nước mắt rất thường mà dường như cũng rất hiếm?
    * Mùa xuân đã về trong hồn gã tù nhân. Nhưng niềm vui sẽ không trọn vẹn nếu người ta bắt được tên tù, cuộc đời gã tù nhân lại khốn khổ. Tại sao người viết không cho một cái kết vui hơn có phải là hợp lí hơn không?
    * Hay là dòng nước mắt hiếm hoi mà mất mấy mươi năm gã tù nhân mới gặp thì đấy là niềm vui rồi, chẳng cần niềm vui nào khác? Và, cứ nên kết thúc chuyện ở đây?


Thứ Ba tuần 33 thường niên

 Tôi là Gio-an, tôi nghe có lời Đức Chúa phán với tôi : “Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Xác-đê. Đây là lời của Đấng có bảy Thần Khí Thiên Chúa và bảy ngôi sao : Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thực ra đã chết. Hãy tỉnh thức ! Hãy củng cố chút sức còn lại đang suy tàn, vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta.  Vậy hãy nhớ lại : ngươi đã lãnh nhận và nghe Lời Chúa thế nào ; hãy tuân giữ và hối cải ! Vậy nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.  Nhưng tại Xác-đê, ngươi có một ít người đã không làm nhơ bẩn áo mình ; họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng.  Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng ; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh ; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người.  Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.
 “Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Lao-đi-ki-a : Đây là lời của Đấng A-men, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng.  Ta biết các việc ngươi làm : ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi !  Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.  Ngươi nói : ‘Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi’ ; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng.  Vì thế, Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua vàng đã thử lửa để làm giàu, mua áo trắng để mặc khiến ngươi khỏi xấu hổ vì để lộ thân thể trần truồng, mua thuốc để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được. Phần Ta, mọi kẻ Ta yêu mến, thì Ta răn bảo dạy dỗ. Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn !  Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.  Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta, trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngự bên Cha Ta, trên ngai của Người.  Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.”

Lời Chúa: 
 Lc 19,1-10
Sau khi vào Giêrikhô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Dakêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! " Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! " Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Đức Giêsu mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót . vì tiếc của ngoái lại mà chết.

Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu".

Khi bị kiện ra tòa ta nên tìm cách làm hòa với đối phương để tránh bị tội nặng hơn.